Old school Swatch Watches

Danh thang khac

Tập hợp thắng cảnh Bình Định
Tổng hợp từ mạng:




Điện Tây Sơn

Điện Tây Sơn là nơi thờ ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, nay nằm trong khu vực nhà Bảo tàng Quang Trung thuộc khối I, thị trấn Phú Phong huyện Tây Sơn. Điện thờ này xấy dựng mới lần đầu được khánh thành năm 1960; năm 1998 được nâng cấp tôn tạo quy mô hơn nhưng không khác mấy so với năm 1960. Điện thời Tây Sơn mang trong mình có cả một câu chuyện lịch sử dài. Sau một thời gian cư trú bên quê vợ là làng Phú Lạc, Hồ Phi phúc và Nguyễn Thị Đông chuyển sang định cư ở làng Kiên Mỹ.
Phú Lạc và Kiên Mỹ đều thuộc ấp Kiên Thành huyện Tuy Viễn phủ Quy Nhơn, về sau đều thuộc xã Bình Thành huyện Tây Sơn. Mãi đến năm 1979 Kiên Mỹ mới tách ra khỏi xã Bình Thành nhập vào thị trấn Phú Phong và gọi là khối I. Kiên Mỹ là quê hương thứ ba của dòng họ Tây Sơn ở Đàng trong, là nơi sinh trưởng của ba anh em nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Thôn Kiên Mỹ được thành lập từ bao giờ thì chưa có tư liệu khẳng định. Có người nói rằng Kiên Mỹ được bắt đầu hình thành với công cuộc khẩn khoan của Hồ Phi Phúc thế kỷ XVIII. Tuy nhiên qua nhiều tài liệu khác lại cho thấy ngay tại thời điểm này Kiên Mỹ đã là một vùng đất trù phú. Ở vào vị trí trung chuyển giữa hai vùng miền núi và đồng bằng, lại có sông Kôn - con sông huyết mạch của Bình Định chảy qua, nên Kiên Mỹ có điều kiện phát triển kinh tế, không chỉ nông nghiệp mà cả kinh tế công thương. Cứ nhìn vào tên gọi 7 xóm cổ của Kiên Mỹ cũng đã phần nào hình dung được điều này: xóm Rèn, xóm Bún, xóm Chợ, xóm Ươm, xóm Mía, xóm Trầu. Chợ Kiên Mỹ nổi tiếng trong vùng, một trung tâm buôn bán của vùng Tây Sơn hạ đạo. Khi rời sang Kiên Mỹ ông bà Hồ Phi Phúc đã tích cực khai hoang nên chẳng bao lâu đã có được ruộng đất 3 mẫu 2 sào. Ngoài việc nông trang ông bà còn thêm nghề buôn bán: Hồ công buôn bán ngược xuôi Nông trang vất vả lắm mùi truân chuyên Nhờ sự tầng tảo của cha mẹ, anh em Tây Sơn lớn lên có điều kiện học hành tử tế. Hồ Phi Phúc chọ thầy giáo Hiến ở An Thái là nơi gửi gắm các con mình: Tiếng thầy vang khắp thị thành Môn sinh lui tới học hành rất đông Hồ công nghe rõ thủy chung Mừng nay con trẻ hạnh phùng minh sư Chọn này mùng chín tháng tư Xin con thụ nghiệp thi thư thành hiền Một ngôi nhà khang trang được xây cất, có cây me, có giếng nước. Tuổi thơ của anh em Tây Sơn đã đi qua tai đây. Sự nghiệp của anh em Tây Sơn cũng bắt đầu từ đây. Sau khi giành được thắng lợi nhà Nguyễn đã thi hành chính sách trả thù tàn bạo. Kiên Mỹ, mảnh đất quê hương của những người anh hùng Tây Sơn không tránh khỏi sự hủy hoại. Nhà cửa bị tàn phá, ruộng đất bị tịch thu. Tuy nhiên với tấm lòng tự hào và tôn kính những người anh hùng của quê hương, nhân dân Kiên Mỹ bằng nhiều cách khác nhau, vẫn giữ gìn và lưu truyền hình ảnh đẹp đẽ về những người con yêu dấu của mình. Phong trào Tây Sơn khi mới giành được thắng lợi ban đầu đã đem lại nhiều quyền lợi thiết thực cho người nghèo. Vì thế, nhân dân Tuy Viễn, để thể hiện lòng biết ơn, đã đóng góp tiền của và công sức xây dựng lại ngôi nhà anh em Tây Sơn ngay trên nền đất cũ, làm nơi thờ tự ông bà Hồ Phi Phúc. Ngôi từ đường này bị nhà Nguyễn phá hủy, nhưng tuyên truyền rằng ngay trên nền nhà đó dân làng đã dựng lên một ngôi đình, gọi là đình Kiên Mỹ. Đình đã bị phá hủy trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến lúc bấy giờ. Tuy nhiên, đến nay ký ức dân gian vẫn còn nhớ rõ về cấu trúc và quy mô của ngôi đình xưa. Đình Kiên Mỹ quay mặt về hướng Nam, ngoài cùng là cổng xây bằng đá ong và vôi vữa, tiếp theo là bình phong, hai bên có hai cột trụ, nhà chính là tiền đường và hậu tẩm, khung gỗ lợp theo lối lá mái. Đình Kiên Mỹ nổi tiếng khắp vùng với những cột đình to người ôm không xuể, cũng như chợ Đình (thôn Vạn Tường xã Bình Hòa) nổi tiếng về những con hạc cao sơn son thiếp vàng rất đẹp. Nhân dân địa phương có câu: Hạc chợ Đình, cột đình Kiên Mỹ hay: Không hạc nào cao bằng hạc chợ Đình Không cột đình nào to bằng cột đình Kiên Mỹ Đình Kiên Mỹ được lập ra là bí mật thờ “Ba ngài Tây Sơn”. Hàng năm, vào ngày 5 tháng 11 âm lịch, tức vào dịp lễ thường tân (tết cơm mới), dân làng cúng giỗ “Ba ngài Tây Sơn” nhưng thường chỉ cúng hương hoa và chỉ “mật cáo” chứ không có văn tế. Lời “mật cáo” được bí mật truyền miệng từ đời người phụng tế này đến người phụng tế khác. Số ruộng trước đây gia đình Tây Sơn khai hoang ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn tịch thu sung làm công điền. Nhân dân đã quy ước với nhau hàng năm đem số ruộng đất này đấu giá để lấy tiền chi phí cho việc thờ cúng ở đình. Tuy nhiên, để che mắt vua quan nhà Nguyễn, dân làng đã khai thành hoàng và xin sắc nhà Nguyễn, danh nghĩa là thờ ở đình nhưng trên thực tế là thờ ở miếu Vĩnh An (xóm Chợ hay xóm Hưng Trung) và hàng năm tổ chức cúng tế linh đình vào tháng ba. Đình Kiên Mỹ trước sau vẫn chỉ là nơi thờ ba anh em Tây Sơn. Năm 1947 sau khi có chủ trương tiêu khổ kháng chiến đình Kiên Mỹ bị phá dân làng lập một miếu nhỏ để tiếp tục thờ cúng “Ba ngài Tây Sơn”. Đến năm 1958 nhân dân Bình Khê đã đóng góp công của xây dựng lại ngôi miếu khang trang hơn lấy tên là Điện Tây Sơn. Công việc đến năm 1960 thì hoàn thành. Điện Tây Sơn tuy nhỏ nhưng trang nghiêm. Trước sân rộng vốn là nền Kiên Mỹ cũ có tam quan, tiếp đó là nhà bia ghi công lao của Quang Trung - Nguyễn Huệ viết bằng chữ quốc ngữ. Chính điện gồm ba gian, gian giữa thờ Quang Trung - Nguyễn Huệ, có bức tranh ông cưỡi ngựa đặt trong khung !!!g kính, gian bên trái thờ Nguyễn Nhạc, gian bên phải thờ Nguyễn Lữ. Hai đầu hồi là ban thờ các tướng Tây Sơn phụ theo. Cái làm nên giá trị của Điện Tây Sơn không phải là kiến trúc mà là những ý nghĩa lịch sử to lớn của nó. Đây là nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đông, nơi ba anh em đã cất tiếng khóc chào đời, đã cùng đi qua tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành rồi phất phất cờ khởi nghĩa trở thành những lãnh tụ kiệt xuất của nông dân và dân tộc vào cuối thế kỷ XVIII. Trải qua bao biến cố tấm lòng của người dân Kiên Mỹ với Tây Sơn, dù là phải “bí mật”. Đình phá thì xây miếu, miếu đổ lại dựng điện…Hiện nay trong khu vườn củ của gia đình anh em Tây Sơn, may thay, vẫn còn lại hai di tích cực kỳ qúy giá, là cây me cổ thụ và giếng nước xưa, tương truyền có thời Hồ Phi Phúc. Hai cây me cổ thụ bên cạnh điện Tây Sơn cành lá xum xuê che lợp cả một bóng vườn. Trong đó co cây me ở bên trái điện nhiều tuổi hơn, gốc cây có chi vi tới 3,5m. Cùng bến Trường Trầu, cây me đã đi vào ký ức dân gian địa phương trong một câu ca trữ tình đượm màu lịch sử. Giếng nước ở bên phải điện Tây Sơn, đường kính 0,9m, trước đây xây bằng đá ong và không sâu như bây giờ. Sau này dân làng vét sâu thêm và xây thành giếng cao hơn mặt đất 0,8m để làm giếng chung cho cả làng. Cạnh điện Tây Sơn hiện nay là nhà bảo tàng Quang Trung khang trang đã được xây dựng. Những người có trách nhiệm đã cân nhắc kỹ khi chọn địa điểm thôn Kiên Mỹ để xây dựng nhà bảo tàng này. Cây me hơn hai trăm tuổi mà sức sống vẫn tràn trề. Thủa ông Hồ Phi Phúc xới đất trồng cây nào có ngờ rằng cây me ấy đã đi vào lịch sử. Giếng nước vẫn mái mát trong, vẫn như ngày nào chắt chiu từng giọt nước ngọt lành môi lớn tâm hồn và ý chí các anh em Tây Sơn.
Cây me cổ thụ
Hơn 200 tuổi, tương truyền do thân sinh ba anh em Tây Sơn trồng, nằm ở bên cạnh điện Tây Sơn cành lá xum xuê che rợp cả một góc vườn, gốc cây có chu vi tới 3,5m, cây me đã đi vào ký ức dân gian trong một câu ca quen thuộc, trữ tình, đượm màu lịch sử:
“ Cây Me cũ, bến Trầu xưa
Không nên tình nghĩa thì cũng đón đưa cho trọn niềm”
Giếng nước
Ở bên phải điện Tây Sơn, tương truyền có từ thời thân sinh ba anh em Tây Sơn, được xây bằng đá ong, đường kính 0,9m, thành giếng cao 0,8m. Đến nay giếng nước xưa vẫn mát trong như ngày nào chắt chiu từng giọt nước ngọt lành nuôi lớn tâm hồn và ý chí anh em Tây Sơn.

Hiện nay, di tích Điện thờ Tây Sơn, Cây me, Giếng nước được gìn giữ trang trọng, tôn kính, trong khuôn viên của khu Bảo tàng Quang Trung. Bảo tàng Quang Trung được nhà nước xây dựng vào năm 1978 có quy mô đồ sộ, hoành tráng, kiến trúc theo kiểu cổ, dáng vẻ uy nghiêm, gồm 9 phòng trưng bày các kỷ vật liên quan đến phong trào khởi nghĩa Tây Sơn và Hoàng đế Quang Trung (1771 - 1789).
Về thăm Bảo tàng Quang Trung, được đứng trên mảnh đất, ngôi nhà đã từng sinh ra, nuôi dưỡng ba anh em Tây Sơn trưởng thành, tận mắt ngắm nhìn những di vật, chiến tích hào hùng, lừng lẫy của phong trào nông dân Việt Nam khởi nghĩa vào thế kỷ XVIII, vào Điện thờ đốt nén hương thơm tưởng nhớ công tích to lớn, kiệt xuất của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ; đứng dưới gốc Cây me, uống dòng nước mát ngọt của Giếng nước xưa du khách như được sống với tinh thần thượng võ, anh hùng, nghĩa hiệp, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất giữ gìn quê hương đất nước qua lịch sử oai hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn và những chiến công hiển hách, lừng lẫy của Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Bên cạnh đó du khách còn được thưởng thức chương trình biểu diễn phong phú, độc đáo, hấp dẫn về lịch sử phong trào Tây Sơn như võ thuật Tây Sơn, trống trận Quang Trung, ca múa nhạc dân tộc... đưa khách ngược dòng lịch sử về với những chiến thắng hào hùng của dân tộc Việt Nam thế kỷ XVIII



THÁP ĐÔI

Tháp nằm cạnh cầu Ðôi, thuộc địa phận phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.Tháp Ðôi còn có tên gọi là tháp Hưng Thạnh, gồm hai ngọn tháp đứng song song với nhau, một tháp cao 20m và một tháp cao 18m.

Tháp xây trên một gò đất giống như mu rùa, rộng vừa đủ để xây tháp. Cả hai tháp có cấu trúc đặc biệt, không giống như các tháp Chăm nhiều tầng truyền thống. Tháp gồm hai phần chính: thân tháp vuông và phần mái tháp mặt cong đều bằng nhau. Mỗi ngọn tháp có một cửa ra vào, cùng nằm về phía đông
THÁP DƯƠNG LONG

Tháp Dương Long

Vị trí: Tháp Dương Long thuộc xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Đặc điểm: Tháp Dương Long còn có tên là tháp Ngà, gồm 3 tháp, tháp giữa cao 24m, hai tháp hai bên cao 22m. Ðây là một trong những cụm tháp đẹp nhất còn lại của miền Trung Việt Nam.

Từ quốc lộ 1A, tới Gò Găng, cách Tp. Qui Nhơn 40km và Tp. Ðà Nẵng 270km, rẽ theo hướng tây vào sân bay Phú Cát, trước cổng sân bay, rẽ trái, đi tiếp chừng 9km nữa là tới.

Phần thân tháp xây gạch, các góc được ghép những tảng đá lớn và các trang trí điêu khắc đều bằng đá. Cửa tháp quay hướng đông và được nâng lên khá cao, chừng khoảng 1,5m và khung cửa là những khối đá lớn. Nửa phần trên của tháp gần như là những khối đá lớn xếp chồng lên nhau rất khéo. Ở các góc là những mảng chạm lớn với hình những con vật chim thần: Garuda, Voi, Đại bàng... Các mặt phẳng của tường được phủ nhiều bức phù điêu lớn có hình lá đề, mô tả cảnh múa hát, tu sĩ. Những người này được thể hiện có đầu tương đối lớn, đội mũ có chỏm cao. Ðặc biệt là những đỉnh tháp ở đây là những bông sen vĩ đại với nhiều lớp cánh hoa hơi hướng lên trên.

Mọi chi tiết trang trí ở tháp này đều rất lớn, trổ trên sa thạch, đường nét rõ ràng và còn giữ được rất tốt. Chỉ riêng những khối đá lớn trên mái đã bị xô lệch nhiều.
Tháp Thủ Thiện

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hiện trạng

Không như một số cụm tháp Chăm Pa khác, tháp Thủ Thiện là di tích chỉ có một ngôi tháp. Trước năm 1985, trên đỉnh tháp Thủ Thiện bị một cây đa đồ sộ mọc trên đỉnh tháp phủ kín, vào những năm 1980 cả ngôi tháp Thủ Thiệm như biến thành một gốc cây đa cổ thụ, không ai dám chặt cây đa này vì cả tháp và cây đều như đã trở thành linh thiêng, điều cũng tương tự với các tháp khác có cây mọc trên
Tuy nhiên trận bão năm 1985 đổ bộ vào tỉnh Bình Định đã thổi bay cây đa khổng lồ khỏi đỉnh tháp, nhưng rất kỳ lạ là cây đa đổ xuống mà không hề làm hư hại lớn cho tòa tháp cổ này
Kiến trúc

Như các ngôi tháp Chăm truyền thống khác, tháp Thủ Thiệm là một kiến trúc tháp tầng vuông gồm thân và ba tầng phía trên mô phỏng than tháp nhưng nhỏ hơn. Trên các mặt tường phía ngoài của than và các tầng tháp được tô điểm bằng các hình tháp nhỏ, đầu cùng các cột ốp góc tường có những hình điêu khắc đá nhô ra, tuy nhiên ở tháp Thủ Thiệm các cột ốp trơn, phẳng và không có hoa văn trang trí, các ô dọc trên tường nằm giữa các cột không những không được chạm khắc hoa văn mà còn biến thành một gờ nổi lớn nhô ra mạnh
Các cửa giả ở giữa ba mặt tường tây, nam, bắc và cửa ra vào phía đông đều có hình cung nhọn lớn như mũi giáo khổng lồ phía trên, đầu các cột ốp hợp thành bộ diềm mái nhô ra mạnh, các tháp nhỏ ở góc các tầng mái không còn là một ngôi tháp thu nhỏ nữa mà biến thành một khố hình chóp nhiều tầng
Lịch sử

Tháp có niên đại xây dựng vào khoảng thế kỷ 11 trong thời kỳ chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định nhưng đậm nét phong cách Bình Định nhiều hơn

Tháp Phú Lốc

Tháp được xây dựng trên một quả đồi cao chừng 80m so với mực nước biển, cách thành Đồ Bàn khoảng 2km. Di dọc trên quốc lộ 1, ngang qua địa phận thôn Châu Thành xã Nhơn Thành có thể nhìn thấy rõ. Từ trước tới nay nhân dân vẫn thường gọi tháp là Thốc Lốc, Phốc Lốc, Phú Lốc, Phú Lộc mà không ai hiểu nghĩa của những tên này. Trong các thư tịch cổ, tên tháp được chép là Phước Lộc. Người Pháp, trong các công trình nghiên cứu của họ lại gọi là Tour d’Or (tháp Vàng). Phân tích phong cách kiến trúc, các nhà chuyên môn đoán định rằng tháp có niên đại tương đương với tháp Cánh Tiên, có nghĩa là cũng được xây dựng vào đầu thế kỷ XII. Quy mô tháp không lớn. Bình đồ tháp hình vuông mỗi chiều đo được 9,7m. Toàn tháp cao khoảng 15m, nhưng vì được xây trên đồi cao nên trông có vẻ ngạo nghễ.
So với tháp Cánh Tiên, trang trí trên tháp Phú Lốc có phần đơn giản hơn. Các cột đá ốp xung quanh thân tháp thẳng trơn. Giống như mọi tháp Champa; cũng có ba cửa giả và một cửa chính hướng về phía Đông. Vòm cửa hình lưỡi mác vút lên cao tới 6m. Phần trang trí chủ yếu được thể hiện trên các cửa giả. Bao quanh phần trên mỗi vòm cửa là các phù điêu trang trí. Cửa giả có tới ba tầng, nhỏ dần về phía trên cao, tạo thành một hình khối giống như 3 lưỡi mác nhọn xếp nối nhau vút lên sát diềm mái.
Mái tháp có 3 tầng, ngăn cách với phần thân bởi một diềm đá để trơn không trang trí. Tầng mái không còn được nguyên vẹn, được tạo dáng thu nhỏ dần lên phía trên với các mặt tường được chạm khắc. Hình sáng lớp mái là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính nhưng các hàng cột ốp dọc có hoa văn xoắn kết dài. Các cửa giả trên mái tháp trông giống như những khám thờ, bao quanh phía trên vòm cửa nhọn được trang trí hoa văn lá lật xoắn đối xứng.
Tháp đứng trên đồi cao trông có vẻ trơ trọi, đìu hiu, nhưng lên tới chân tháp, phóng tầm mắt ra bốn hướng thì thấy cảnh trí xung quanh thật kỳ vĩ. Tại đây có thể nhìn thấy cả vùng đồng bằng rộng lớn của hai huyện An Nhơn và Phù Cát.
(Theo “Bình Định danh thắng và di tích”)
Cánh Tiên cổ tháp

"Thành cựu có tháp Cánh Tiên/Có chùa Thập Tháp có phiên Gò Chàm" (Ca dao Bình Định). Đó là lời giới thiệu đầy tự hào của người An Nhơn về những biểu tượng của quê hương. Được nhắc đến trước nhất là tháp Cánh Tiên, một ngôi tháp đã trải ngót chín thế kỷ phong sương mà vẫn lộng lẫy cùng tuế nguyệt.

Từ xa, ta đã thấy các vai tháp chìa ra không trung những phiến đá trắng mỏng mảnh giống bàn tay con gái uyển chuyển lật lên trong điệu múa. Có lẽ tên tháp được gợi ra từ những chiếc cánh này, như Đại Nam nhất thống chí mô tả: "Nam An cổ tháp ở thôn Nam An huyện Tường Vân trong thành Đồ Bàn, tục hô là tháp Cánh Tiên. Từ vai tháp trở lên, bốn phía ngó giống như cánh tiên bay lên nên gọi tên ấy. Xét cả các tháp, duy tháp này cao hơn, đứng xa trông thấy cảnh sắc thanh u, từ xưa xưng là thánh tích, nay lần sụp lở". Còn các nhà nghiên cứu người Pháp theo cách mệnh danh riêng, đã gọi tháp Cánh Tiên là Tháp Đồng (Tour de Cuvre).

Tháp Cánh Tiên được xây bằng gạch Chàm lớn màu đỏ và đá sa thạch. Theo các nhà chuyên môn thì tỷ lệ đá dùng trong tháp Cánh Tiên nhiều hơn so với các tháp khác ở Bình Định. Sở dĩ như vậy vì tháp là công trình kiến trúc trong tổng thể hoàng thành Đồ Bàn cũ, chất liệu sa thạch vừa kiến lập sự bền vững trong kết cấu, vừa được sử dụng nhiều trong điêu khắc tạo hiệu quả thẩm mỹ cao.

Đế tháp vuông vức tạo thành một bình đồ 400m2 trên mặt đất. Các khối đá lớn bó góc và các cột gạch ốp song song tạo gờ nổi trên mỗi mặt tường trông thật mạnh mẽ. Các mặt tường đông tây nam bắc của thân tháp mẹ đều có cửa vòm, nhưng chỉ có cửa chính hướng đông là cửa thật, còn lại là ba cửa giả. Các vòm cửa cao, đường viền khuôn cửa nhô mạnh ra ngoài, phía trên vòm cửa cong và hơi nhọn ở đỉnh, tiếp với mảng hoa văn xếp lớp đồng tâm, hình hoa sen nở. Bên trong tháp, trong mỗi khung cửa giả đều đặt tượng hoặc tranh chạm khắc rất đẹp, rất tiếc là ngày nay không còn. Trong tài liệu ghi chép về các tháp Chàm tỉnh Bình Định, nhà du khảo người Pháp Ch. Lemire đã mô tả lại: "Trên mỗi cửa bên trong đều có một bức tường có hình gân cung, nó giấu kín một tượng đàn bà bán thân nửa nổi nửa chìm, đầu đội một cái mũ rất sang, cầm trong tay một đóa hoa sen". Tượng có lẽ đã bị !!c lấy sau đó, như kiểu người ta dỡ tường để lấy các bức tranh khắc bằng đá được gắn hoặc tạc vào đó. Chỉ còn các đầu thủy quái Makara nanh nhọn, vòi dài, chạm khắc tinh tế trên mặt đá ít nhiều tỏa ra thứ ánh sáng huyền bí rợn ngợp thường gặp ở các công trình tín ngưỡng Chàm.

Các cột ốp góc bằng đá sa thạch nguyên khối thẳng đứng với đường nét chạm khắc tinh tế nổi bật trên màu gạch, khiến tháp vừa uy nghi vừa sang trọng. Trên các cột đá vuông ở bốn góc tháp là bộ diềm chạy đường xếp bệ đèn rất sắc sảo, nhô dần ra từng ba bậc một, cuối cùng tạo thành bệ đỡ vững chải của các tháp góc bên trên. Từ bộ diềm này lên đến đỉnh còn tám lớp tháp giả chia làm ba tầng. Đặc biệt tầng trên cùng thu hẳn lại, như một sự biến tấu đầy cố ý của người nghệ sĩ tài hoa. Và quả thật, khi tầm nhìn bị thay đổi, ánh mắt con người bị hút bởi các tháp mái như vừa hiện ra từ thần thoại, càng lên phía trên càng nhỏ dần gợi cảm giác trùng điệp mà không hề nhàm chán. Với dáng lồi đặc trưng, phần thân mỗi tháp mái cấu trúc tương tự thân tháp mẹ nhưng đơn giản hơn. Các phiến đá hình đuôi phượng nhô ra từ cạnh các cột ốp góc của các tháp mái là nét độc đáo của công trình kiến trúc này. Đó chính là những "cánh tiên" kỳ diệu làm tăng vẻ mỹ lệ bay bổng của phần diềm và mái.

Ở tháp Cánh Tiên, đối ngẫu với sự vững chãi mang dấu ấn quyền năng của phần đế tháp là sự thanh thoát đặc trưng của các cửa vòm và phần đỉnh, đối ngẫu với uy lực thâm nghiêm nơi các tượng thần là cảm giác vui tươi của những dải đá đuôi phượng - tất cả hòa quyện thành một ngôn ngữ kiến trúc cực kỳ siêu thoát trong tầm mắt con người. Vẻ đẹp nhẹ nhõm vui tươi khiến tháp Cánh Tiên khác hẳn với các tháp Chăm nặng chất trầm tịch u hoài, nó cho phép người ta nghĩ đến một biểu tượng của hạnh phúc và niềm vui sống hơn là một công trình tôn giáo.

Theo các thư tịch cổ, thành Đồ Bàn do vua Chiêm Thành Ngô Nhật Hoan xây từ thế kỷ thứ X, còn tháp Cánh Tiên được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, dưới đời vua Chế Mân (Jaya Sinbavarman III). Phải chăng, đây là ngôi tháp Chế Mân dành tặng hoàng hậu Paramecvari, tức Huyền Trân công chúa, người con gái Việt cao quý đã đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, cùng ông kết mối lương duyên lịch sử. Tương truyền, trước khi rời Đại Việt, nàng công chúa lá ngọc cành vàng của triều Trần đã học nhuần nhuyễn mọi nghi thức cung đình lẫn sinh hoạt dân gian Chiêm. Đi làm dâu xa xứ, nàng được thần dân yêu quý và kính trọng vì vị hoàng hậu người Việt này không những nói thạo tiếng Chiêm Thành, biết múa hát các điệu dân ca dân vũ Chiêm Thành, mà còn chịu khó truyền dạy các cung nữ và thần dân quê chồng dệt vải, trồng lúa, thêu thùa, may vá. Tưởng không quá khi nói rằng: Cưới Huyền Trân, sính lễ của Chế Mân là hai châu Ô - Lý, còn tháp Cánh Tiên là sính lễ tình yêu mà ông dành tặng cho nàng, như một lời công nhận thiêng liêng trước thần dân trăm họ. Trở lại với lời mách bảo của nhà du khảo Ch. Lemire, ta có quyền hy vọng vẫn còn đâu đó trong lòng đất, hoặc trầm ẩn giữa các tường tháp cổ xưa, một bức tượng Huyền Trân - Paramecvari với vương miện hoàng hậu, gương mặt dịu hiền phảng phất nỗi tư hương, trên tay còn rưng rưng một búp sen minh triết.
(Nguồn: Báo Bình Định)
Tháp Bình Lâm
Di tích này nằm ven sông Gò Tháp thuộc xóm Long Mai, thôn Bình Lâm, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, cTháp Bình Lâm ách thành phố Quy Nhơn 22 km về phía tây bắc. Người dân ở đây kể lại rằng, thuở trước, khu vực tháp là vùng sình lầy, khi người Việt đến khai phá đất hoang hoá để sinh sống, họ đã đặt tên thôn là thôn Bình Lâm (Bình Lâm có nghĩa là rừng bằng). Trong hệ thống tháp Chăm còn lại của Bình Định, tháp Bình Lâm là nhóm tháp có niên đại sớm nhất. Di tích này được Nhà nước xếp hạng năm 1993.








Tháp Bình Lâm








Tháp Bình Lâm có bình đồ vuông, về hình thức tạo dáng, tháp cũng được xây cất theo kiểu tầng như các tháp khác, cửa chính quay về phía đông, còn ba mặt là cửa giả quay về ba hướng Tây - Nam - Bắc. Trong các cửa giả, cửa phía Tây và cửa phía Nam là còn nguyên, cửa chính và cửa phía Bắc đã bị sụt lở phần vòm. Phần lớn các cửa giả đều được xây nhô ra cách thân tháp chừng 1,5m. Những cửa giả này, phần vòm được tạo nhiều lớp mái vòm nhọn, mỗi vòm như vậy tạo cảm giác như một tòa lâu đài thu nhỏ; trong các ô khám các "tòa lâu đài" đều có tượng thần bằng đất nung, nhưng đã bị mất từ lâu. Nhìn lên đỉnh tháp, ở giữa các tầng tháp đều được tạo các cửa giả và cũng được cấu tạo theo kiểu lâu đài.
Càng lên cao, tháp càng được thu nhỏ dần về phía đỉnh.Tuy nằm ở vị trí bằng phẳng, song với chiều cao của tháp trên 20 m, khi đứng dưới chân ngước mắt nhìn, vẫn thấy dáng cao vút uy nghi của kiến trúc. Cái đẹp nhất ở đây là những vòm cửa giả, mỗi cửa giả là một tác phẩm nghệ thuật sinh động mà những người nghệ sĩ Chăm vô danh gửi lại cho hậu thế! Giáp với mái và thân, tháp lại được trang trí những mô típ hoa văn kiểu chuỗi hạt uốn lượn liên hoàn hình chữ U chạy vòng quanh tháp. Lên các tầng trên, hoa văn cũng được lặp lại như vậy.
Ở Bình Lâm, các mô típ hoa văn đều được tạo trực tiếp lên gạch với hình dáng tỷ lệ cân đối, điều đó đã tạo vẻ đẹp cho di tích này. Những họa tiết trang trí các tháp góc và những hình ảnh tòa lâu đài trên các cửa giả, cùng với những hoa văn trang trí kiểu chuỗi hạt, cho thấy ở tháp Bình Lâm một xu hướng mới đã bắt đầu xuất hiện. Như trên mặt tường không còn thấy hoa văn trang trí mà xuất hiện những rãnh nhỏ chạy dọc từ trên xuống; vòm cửa đã bắt đầu vươn cao hình mũi giáo, một xu thế đơn giản để đi đến dáng vẻ hoành tráng, khỏe khoắn của phong cách kiến trúc Bình Định sau này. Có thể xem Bình Lâm là di tích mang phong cách kiến trúc chuyển tiếp từ thế kỷ X sang phong cách Bình Định cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI. Vừa qua, tháp Bình Lâm đã được gia cố, chống xuống cấp.
Một người con Binh Định
Nguyễn Hữu Chánh


THÁP ĐÔI

Tháp nằm cạnh cầu Ðôi, thuộc địa phận phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.Tháp Ðôi còn có tên gọi là tháp Hưng Thạnh, gồm hai ngọn tháp đứng song song với nhau, một tháp cao 20m và một tháp cao 18m.

Tháp xây trên một gò đất giống như mu rùa, rộng vừa đủ để xây tháp. Cả hai tháp có cấu trúc đặc biệt, không giống như các tháp Chăm nhiều tầng truyền thống. Tháp gồm hai phần chính: thân tháp vuông và phần mái tháp mặt cong đều bằng nhau. Mỗi ngọn tháp có một cửa ra vào, cùng nằm về phía đông
THÁP DƯƠNG LONG

Tháp Dương Long

Vị trí: Tháp Dương Long thuộc xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Đặc điểm: Tháp Dương Long còn có tên là tháp Ngà, gồm 3 tháp, tháp giữa cao 24m, hai tháp hai bên cao 22m. Ðây là một trong những cụm tháp đẹp nhất còn lại của miền Trung Việt Nam.

Từ quốc lộ 1A, tới Gò Găng, cách Tp. Qui Nhơn 40km và Tp. Ðà Nẵng 270km, rẽ theo hướng tây vào sân bay Phú Cát, trước cổng sân bay, rẽ trái, đi tiếp chừng 9km nữa là tới.

Phần thân tháp xây gạch, các góc được ghép những tảng đá lớn và các trang trí điêu khắc đều bằng đá. Cửa tháp quay hướng đông và được nâng lên khá cao, chừng khoảng 1,5m và khung cửa là những khối đá lớn. Nửa phần trên của tháp gần như là những khối đá lớn xếp chồng lên nhau rất khéo. Ở các góc là những mảng chạm lớn với hình những con vật chim thần: Garuda, Voi, Đại bàng... Các mặt phẳng của tường được phủ nhiều bức phù điêu lớn có hình lá đề, mô tả cảnh múa hát, tu sĩ. Những người này được thể hiện có đầu tương đối lớn, đội mũ có chỏm cao. Ðặc biệt là những đỉnh tháp ở đây là những bông sen vĩ đại với nhiều lớp cánh hoa hơi hướng lên trên.

Mọi chi tiết trang trí ở tháp này đều rất lớn, trổ trên sa thạch, đường nét rõ ràng và còn giữ được rất tốt. Chỉ riêng những khối đá lớn trên mái đã bị xô lệch nhiều.
Tháp Thủ Thiện